S&P Global: Chỉ số PMI tháng 3 của Việt Nam giảm 3,5 điểm

Vũ Xuân Kiên

Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global công bố ngày 3/4, đạt kết quả 47,7 trong tháng 3, giảm so với 51,2 điểm của tháng 2 và nằm dưới ngưỡng 50 điểm lần thứ 4 trong năm tháng qua.

Sau khi có những dấu hiệu phục hồi trong tháng trước, ngành sản xuất của Việt Nam đã có một bước lùi trong tháng 3. Sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm giảm trở lại khi có các báo cáo cho thấy nhu cầu khách hàng giảm. Tuy nhiên, nhu cầu giảm đã làm giảm áp lực lạm phát, trong khi thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn nhiều nhất trong thời gian hơn 8 năm.

pmi0304-1680508462.jpg
Ảnh minh họa. (Ảnh: TTXVN)

Chỉ số Nhà Quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global công bố ngày 3/4, đạt kết quả 47,7 trong tháng 3, giảm so với 51,2 điểm của tháng 2 và nằm dưới ngưỡng 50 điểm lần thứ 4 trong năm tháng qua.

Sự suy giảm các điều kiện kinh doanh là mạnh, mặc dù ít đáng kể hơn so với mức được ghi nhận trong khoảng thời gian cuối năm ngoái đầu năm nay.

Theo các công ty, việc đà tăng trưởng dừng lại trong tháng 3 đã phản ánh bức tranh tương đối ảm đạm của nhu cầu. Cả tổng số lượng đơn đặt hàng mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều giảm tương ứng.

Đây là lần giảm thứ 4 trong năm tháng của tổng số lượng đơn đặt hàng mới, nhưng là lần giảm đầu tiên trong 3tháng của số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài. Từ đó, lượng công việc tồn đọng đã giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 11 năm ngoái.

Trong bối cảnh lượng đơn đặt hàng mới giảm, sản lượng ngành sản xuất cũng giảm trong tháng 3 sau khi tăng trong tháng 2. Tuy nhiên, mức giảm chỉ là khiêm tốn. Sản lượng tăng ở lĩnh vực hàng hóa đầu tư cơ bản, nhưng lại giảm ở lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa trung gian. Tồn kho hàng thành phẩm hầu như không thay đổi so với tháng trước, từ đó kết thúc thời kỳ giảm kéo dài năm tháng.

Một số công ty có hàng tồn kho sau sản xuất tăng trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới giảm, trong khi những công ty khác lại cho biết sản lượng giảm khiến hàng tồn kho giảm.

Trong bối cảnh yêu cầu sản xuất giảm, các nhà sản xuất đã giảm hoạt động mua hàng và việc làm. Hoạt động mua hàng giảm khiến tồn kho hàng hóa đầu vào giảm, và lượng hàng tồn kho đã giảm tháng thứ ba liên tiếp. Tốc độ giảm là mạnh và nhanh nhất kể từ tháng 6/2021.

Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm là nhân tố chính góp phần làm rút ngắn thời gian giao hàng của nhà cung cấp lần thứ ba liên tiếp. Hơn nữa, mức tăng hiệu suất hoạt động người bán hàng gần đây là đáng kể nhất trong hơn tám năm.

Mặt khác, có những dấu hiệu cho thấy áp lực lạm phát đã giảm vào đầu quý 1. Dù cước phí của nhà cung cấp tăng khiến chi phí đầu vào tiếp tục tăng, tốc độ lạm phát là chậm nhất kể từ tháng 10 năm ngoái, từ đó kết thúc thời kỳ gia tăng lạm phát chi phí.

Với giá cả đầu vào tăng chậm hơn và các công ty vẫn muốn cạnh tranh về giá cả để thúc đẩy nhu cầu, giá cả đầu ra chỉ tăng nhẹ trong tháng 3. Tốc độ tăng giá bán hàng là chậm nhất trong thời kỳ tăng giá kéo dài ba tháng gần đây.

Theo S&P Global, mặc dù có dấu hiệu suy yếu vào cuối quý 1, các nhà sản xuất vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong 12 tháng tới. Tâm lý kinh doanh giảm so với tháng 2 nhưng vẫn là mức cao thứ nhì trong năm tháng khi có những hy vọng rằng nhu cầu sẽ cải thiện và các điều kiện thị trường sẽ ổn định. Một số công ty cũng tiết lộ về các kế hoạch mở rộng kinh doanh.

Bình luận về vấn đề này, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence cho rằng, tăng trưởng trong ngành sản xuất đã dừng lại trong tháng 3, sau khi đã phục hồi mạnh mẽ trong tháng trước.

Hy vọng việc suy giảm các điều kiện trong tháng 3 chỉ là một bước lùi tạm thời khi các công ty vẫn tin tưởng về triển vọng trong một năm tới. Thời kỳ gia tăng chi phí kéo dài đã kết thúc khi áp lực giá cả đã giảm do nhu cầu yếu, trong khi việc phục hồi hoạt động chuỗi cung ứng tiếp tục tăng nhanh./.